Giới thiệu: Dây leo, dài 2-6m. Rễ phình to thành củ nạc bám vào núi đá, có khi nặng tới 50kg. Da thân củ màu nâu đen, xù xì giống như hòn đá, hình dáng thay đổi tuỳ theo nơi củ phát triển. Nếu mọc ở đất thì củ nhỏ hơn. Từ thân củ mọc lên những thân màu xanh, nhỏ, mềm. Lá mọc so le, cuống dài, phiến mỏng hình khiên hoặc tam giác gần tròn.
Hoa nhỏ, khác gốc, màu vàng cam tụ tập thành tán kép. Quả hình cầu dẹt, khi chín màu đỏ, có một hạt hình móng ngựa có gai. Nhiều loài có rễ củ mang tên Bình vôi như S. sinica Diels., S. pierrei Diels., S. dielsiana Y. C. Wu… đều được dùng.
Bình vôi mọc hoang chủ yếu ở vùng núi đá vôi các tỉnh Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Lào Cai…
Thu hái, sơ chế: Có thể thu hái quanh năm, đào lấy củ, rửa sạch, cạo bỏ vỏ đen, thái mỏng, phơi hay sấy khô.
Thành phần hoá học chính: Nhiều alcaloid (1%), trong đó quan trọng nhất là L-tetrahydropalmatin và roemerin.
Công năng: An thần, tuyên phế
Công dụng: Làm thuốc an thần, gây ngủ, chữa nhức đầu, sốt nóng, đau dạ dày (thuộc nhiệt), ho nhiều đờm, hen suyễn, khó thở. Phối hợp với các vị thuốc khác để trị ho lao, sốt rét, kiết lỵ, ngứa lở ngoài da, mụn nhọt.
Y học hiện đại dùng toàn cây, cao hoặc alcaloid bào chế để làm thuốc an thần.
Cách dùng, liều lượng: Ngày dùng 3-6g bột củ hoặc 10-15ml rượu thuốc 10%.